1. Chọn đề tài
- Nên làm công
tác tư liệu trước khi chọn đề tài, vì có thể quyết định giới hạn đề tài và chọn
hướng nghiên cứu sau khi đã nắm vững có bao nhiêu tài liệu thích ứng, có bao
nhiêu hướng nghiên cứu trước đây về cùng một chủ đề; trên cơ sở đó xác định
nghiên cứu của mình có gì mới, có đóng góp gì cho học thuật, có gì khác biệt,
không trùng lắp với những người đã đi trước. Điều này đặc biệt có lợi cho đối
với luận văn, luận án, vì nguyên tắc đầu tiên đối với luận văn, luận án là
không được trùng lặp với các luận văn, luận án đã được xác định, đã được bảo
vệ, hoặc các công trình đã công bố.
- Trước khi chọn đề tài, nên chọn hướng nghiên cứu. Ví dụ
đối với Triết học: NDVBC; CNDVLS; lịch sử triệt học…Đối với Lịch sử Đảng: Lĩnh
vực đối ngoại, kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, cải cách ruộng đất…
1.1. Loại đề tài
- Đề tài nhỏ: Nên chọn đề tài nhỏ
nhưng làm sâu. Nên lựa chọn những khía cạnh có thể xử lí ở tầm sâu, thay vì đề
cập đến quá nhiều vấn đề một cách nông, dàn trải.
- Đề tài rộng: Dễ viết, dễ bố cục,
song do bị quy định bởi dung lượng của luận văn, luận án, nên khó làm kỹ và như
vậy dễ rơi vào tình trạng hời hợt.
- Đề tài khó: Là những mảnh đất ít
bị “cày xới”, vì thế, có “đất” cho người nghiên cứu “dụng võ”, song người
nghiên cứu phải có bản lĩnh nghiên cứu.
Mỗi loại đề tài đều có cái khó, dễ
riêng của nó. Nhiều khi khó mà thành dễ và ngược lại.
1. 2. Cách tìm đề tài
- Thông thường, các tài liệu, các
nguồn thông tin mang tính thời sự là trong những cơ sở tốt để định hướng nghiên
cứu.
- Các bài tóm
tắt, những chủ đề đang được quan tâm trên các tạp chí chuyên ngành.
- Các vấn đề khoa học thuộc chuyên
ngành, dù không còn mới, song luôn luôn còn có những nội dung, những khía cạnh
có thể khai thác được. Vấn đề cũ, những có quan điểm nghiên cứu mới, có tư liệu
mới vẫn là những hướng nghiên cứu tốt.
- Chọn đề tài từ các Danh mục đề tài của các đơn vị nghiên
cứu.
- Chọn đề tài từ Danh sách các đề tài nghiên cứu của
người hướng dẫn khoa học.
- Tìm từ Danh mục đề tài, đề tài luận văn, luận án… Thường giữa hai, hoặc
một vài vấn đề hay có những vấn đề mà ít hay chưa có người khai thác, có thể
tiến hành tìm ở những nơi đó để có đề tài mới. Cũng có thể lồng ghép một vài
nội dung nghiên cứu từ những đề tài khác nhau để thành một đề tài nghiên cứu
mới.
1.3. Đặc điểm của một đề tài tốt
*
Về tên đề tài
- Xác định tên đề tài là bước đi hết
sức quan trọng, nó chi phối và quyết định thành công hay thất bại của quá trình
nghiên cứu. Xác định đúng, trúng, rõ tên đề tài là hết sức quan trọng vì:
+ Đề tài xác định nội dung, đối
tượng, xác định rõ cái đích mà công trình phải đạt đến. Nội dung nghiên cứu của
một đề tài khoa học được phản ánh một cách cô đọng nhất trong tiêu đề của nó.
Đó là một phần của thực tiễn khách quan, trong đó ẩn dấu những đòi hỏi
của lý luận và thực tiễn cấp thiết, được xác định trong một không gian và thời
gian nhất định. Theo cách hiểu này, đề tài khoa học được cấu trúc bao gồm:
a. Vấn
đề nghiên cứu (được phát hiện ra)
b.
Không gian nghiên cứu (có tính đặc thù)
c.
Thời gian nghiên cứu (định vị rõ ràng, hoặc tương đối rõ ràng)
- Không gian và thời gian quy định
vấn đề nghiên cứu vận động trong những điều kiện cụ thể. Do đó, nó quy định
tính và tính đặc thù. Điều này cho thấy vấn đề nghiên cứu có thể giống nhau mà
kết quả nghiên cứu có thể khác nhau nếu không gian và thời gian khác nhau.
- Phát hiện vấn đề nghiên cứu là
khó, nhưng vấn đề đó phù hợp với điều kiện nghiên cứu còn khó hơn. Cần chọn
được đề tài phù hợp, có đủ điều kiện cần thiết để triển khai và hoàn thành.
Chọn được đề tài coi như đã hoàn thành một bước quan trọng.
- Tên đề tài phải súc tích, ít chữ
nhất, nhưng chứa đựng nhiều thông tin nhất. Tên đề tài phải viết hết sức ngắn
gọn, từ ngữ phải cụ thể và chính xác về mặt khoa học, đại chúng, không có từ
thừa, từ lặp, Tên của đề tài cần có tính đơn nghĩa, khúc chiết, rõ ràng, không
dẫn đến những sự hiểu lầm, hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau hay hiểu mập mờ.
- Có một số điểm cần lưu ý hạn chế
khi đặt tên cho đề tài như sau:
+ Dùng những cụm từ có độ bất định
thông tin cao: như "Về...", "Thử
bàn về...", "Một số biện pháp...", "Một số vấn đề...",
"Tìm hiểu về...", Một số vấn đề”, “Vài suy nghĩ về…”, Góp phần vào…”,
“Góp phần tìm hiểu…” … Đặt tên kiểu này, có thể tác giả muốn thể hiện sự khiêm
tốn trong nghiên cứu, song nhược điểm của nó là hoàn toàn có thể dẫn đến việc
hiểu mập mờ về mục tiêu nghiên cứu và rất khó đánh giá kết quả cuối cùng của
công trình nghiên cứu. Vì càng bất định thì nội dung phản ánh được càng không
rõ ràng, chính xác.
+ Lạm dụng những từ chỉ mục đích: Những từ như "nhằm", "để", "góp
phần",... nếu bị lạm dụng dễ làm cho
tên đề tài trở nên rối rắm, không nêu bật được nội dung trọng tâm.
+ Lạm dụng mĩ từ hoặc cách nói bóng
bẩy: Tiêu chí quan trọng trong văn
phong khoa học là đơn giản, ngắn gọn, rõ ràng, dễ hiểu, đơn nghĩa.
+ Thể hiện tình cảm, thiên kiến,
quan điểm: Một tiêu chí quan trọng khác trong
khoa học, đó là tính khách quan, không phụ thuộc vào tình cảm, chính kiến, quan
điểm,... vì chúng thường có tính nhất thời, tính lịch sử trong một thời điểm
nhất định.
*
Một số yêu cầu khác
- Đề tài luận văn, luận án
luôn luôn phải chú trọng để phù hợp với chuyên ngành đào tạo, không được trùng
lặp với các công trình, đề tài, luận án đã công bố hoặc bảo vệ.
- Đề
tài có giá trị và thích hợp với trình độ, khả năng, sở trường của người nghiên
cứu.
- Có phạm vi giới hạn: Vì phạm vi càng hẹp vấn đề sẽ càng được đào sâu, trong khi
một vấn đề có phạm vi rộng sẽ dễ dẫn đến nguy cơ dàn trải, thiếu tập trung, xử
lí các vấn đề chỉ ở trên bề mặt.
- Có tính mới và độc đáo: Kết quả nghiên cứu phải mang lại một sự tiến bộ nhất định
trong tri thức khoa học chuyên ngành, giải quyết một vấn đề nào đó, hoặc bổ
sung những nội dung mới.
- Cho phép xử lí vấn đề tương đối
trọn vẹn: Sao cho kết quả thu được giúp rút
ra những kết luận rõ ràng, góp phần giải quyết hầu hết các vấn đề cơ bản cần
nghiên cứu đã đặt ra.
- Đề tài nên tránh việc chỉ giải
quyết những mặt phụ của vấn đề.
- Phải đáp ứng được điều kiện tiếp
cận các nguồn tài liệu tham khảo. Do đó, các đề tài quá mới, hoặc quá chuyên biệt
sẽ có ít tài liệu, hoặc nguồn tài liệu khó truy cập (đặc biệt trong điều kiện
các tài liệu lưu trữ ở Việt Nam rất khó tiếp cận, không có những quy định cụ
thể về việc cho phép công bố, hoặc tiếp cận).
- Tránh chọn những đề tài quá phức
tạp, đòi hỏi phải tham khảo rất nhiều tài liệu trong một phạm vi quá rộng (có
không chỉ một đối tượng nghiên cứu cần giải quyết). Tránh các loại đề tài có
hai đối tượng, hoặc không rõ đối tượng, hay những đối tượng đang còn trong diện
mập mờ, chưa xác định, gây tranh cãi, vì trong trường hợp này cần có một bước
khoanh lại nội dung nghiên cứu trong phần Phạm vi nghiên cứu, mà phần
khoanh lại trong phạm vi nghiên cứu của Học viên, NCS chưa chắc đã tìm thấy sự
đồng thuận trong quan điểm của các thành viên Hội đồng chấm luận văn, luận án).
2. Nguồn tư liệu nghiên cứu
2.1. Tầm quan
trọng của tư liệu
- Tài liệu là
công cụ duy nhất giúp nhà nghiên cứu tiến hành công việc nghiên cứu của mình.
Không có tài liệu thì dù có đầu óc vĩ đại, nhà nghiên cứu cũng khó có thể cho
ra đời các công trình có tầm vóc và giá trị.
- Tài
liệu quyết định 60-70% thành công của đề tài, luận văn, luận án.
- Người nghiên
cứu có thể học từ tài liệu:
+ Cách xử lý,
phát hiện thông tin, ý tưởng của các tác giả đi trước.
+ Nảy sinh ý
tưởng mới từ việc phân tích tư liệu.
+ Kế thừa kết
quả nghiên cứu.
+ Phát hiện và
khỏa lấp khoảng trống trong nghiên cứu.
2.2. Nguyên tắc
khai thác tài liệu
- Bất kỳ tài
liệu nào cũng hết sức quý báu (nếu bạn biết khai thác và sử dụng).
- Nên khi khai thác
tài liệu, nên khai thác tối đa, theo nguyên tắc: “Thà bắt nhầm còn hơn bỏ sót”.
Các tài liệu với cái nhìn đầu tiên, nhiều khi không có giá trị, không có liên
quan gì đến vấn đề nghiên cứu (vì người nghiên cứu chưa có hình dung đầy đủ về
các khía cạnh nghiên cứu, hoặc chưa biết rõ nội dung tài liệu, vì rất nhiều tài
liệu, tên không phản ánh, hoặc phản ánh đầy đủ nội dung), vì thế, rất cần phải
đọc, gạn lọc kỹ tài liệu. Cũng có những tài liệu không liên quan trực tiếp,
thậm chí không liên quan gần với vấn đề nghiên cứu, song vẫn có giá trị nhất
định (giá trị tham khảo bố cục, hoặc cách xử lý vấn đề…).
2.3. Các loại
tài liệu
Nguồn tài liệu
nghiên cứu có thể bao gồm:
-
Các loại sách vở, báo chí; các loại ấn phẩm của chính phủ.
-
Các bài giảng thuyết trình, phỏng vấn,
-
Băng từ, phim ảnh, bảng biểu đồ, dữ liệu vi tính (đĩa CD hoặc đĩa floppy).
-
Các tư liệu chưa xuất bản hay chỉ lưu hành nội bộ, trang Web.
3. Đọc tài liệu
3.1. Đọc để sưu tầm tài liệu
*
Đọc định vị
- Đọc lướt qua tài liệu để tìm các
thông tin.
- Đọc một mẩu trích dẫn, khái quát
các yếu tố liên quan.
- Ở thời điểm này, nên xem kĩ nội
dung phần tóm tắt của tài liệu, đọc các đề mục trong tài liệu, để nhìn thấy mối
liên hệ chung giữa toàn bộ các tài liệu.
- Tìm, đọc các từ khoá của tài liệu
liên quan đến đề tài nghiên cứu.
* Đọc gạn
lọc
- Bước này thực hiện khi đã qua bước
đọc định vị
- Chỉ đọc những gì quan trọng, cốt
lõi, mới mẻ, hấp dẫn nhất.
- Chỉ đọc tựa, các tựa phụ, đoạn
đầu và đoạn cuối, câu đầu và câu cuối của các đoạn khác, ghi nhớ các ý chính,
chú ý đặc biệt đến những từ nối quan trọng tạo mối liên hệ trong lập luận suốt
toàn bài, không đọc các chi tiết nhỏ cụ thể;
*
Đọc chéo
- Đọc nhanh qua tất cả các trang,
đoạn văn bản mà không chú ý vào một điểm cụ thể nào trong bài.
- Đọc và sàng lọc những nội dung,
chương, đoạn cần thiết. Đọc không theo trật tự.
3.2. Đọc để ghi chú tài liệu
*
Đọc một lượt
Cách đọc và ghi chép tài liệu
một lượt cho tất cả các vấn đề nội dung nghiên cứu.
- Các đọc này
đòi hỏi nhà nghiên cứu phải có kiến thức, khả năng bao quát và khả năng phân tâm để phân loại chủ đề và tư tưởng của tài liệu
trong khi đọc, để có thể ghi chú tài liệu.
* Đọc cho từng chương, từng vấn đề
Cách đọc tài liệu cho từng chương
hay từng vấn đề giúp tác giả tập trung và dễ dàng
ghi chú các nội dung cần thiết cho từng chương, phục vụ việc viết cho
từng chương.
* Đọc
tích cực
- Là phương pháp đọc hiểu quả
nhất, bằng cách:
+ Ghi chú, đánh dấu các ý chính,
+ Tóm tắt toàn bộ tài liệu hoặc các
phần quan trọng,
+ Biết lĩnh hội kiến thức, tiêu hoá
thông tin một cách chủ động, có chọn lọc, sau đó diễn đạt lại bằng ngôn
ngữ, phong cách của mình.
+ Đánh giá, so sánh, liên hệ giữa các
ý, các tài liệu, các tác giả khác nhau nhằm đưa ra một cái nhìn phân tích/tổng
hợp/phê bình.
Lưu ý:
- Tùy theo sở thích và sở trường, bạn có thể chọn lựa các cách mà bạn
cho là phù hợp.
- Tốt nhất là kết hợp tất cả cả
cách, như các giai đoạn trong một tiến trình đọc, trong đó giai đoạn sau cao
hơn giai đoạn trước.
- Một điều lưu ý quan trọng là
đừng bao giờ “tham lam” trong khi đọc. Nghĩa là không đặt mục đích đọc nhiều
vấn đề cùng lúc, hãy kỹ lưỡng từng vấn đề. Đọc như vậy, bạn sẽ không nhớ
được gì, và do đó, cũng không thể ghi chú được cái gì. Hãy đọc có suy tư, phản
ánh văn bản và ghi chú khi thấy cần.
*
Thái độ đọc
- Tin tuyệt đối hoặc thành kiến đều
không đúng
- Đọc phản biện, tiếp thu, nhận thức
4.3. Ghi chú tài liệu
*
Nội dung ghi chú
-
Những kiến thức hay thông tin cần thiết nhất, phổ quát nhất và cần có
nhất cho lĩnh vực nghiên cứu, để hệ thống
kiến thức, làm sâu kiến thức, mở rộng kiến thức.
- Những nội dung quan trọng (tác giả uy
tín, nổi tiếng), để học hỏi và trích dẫn về sau.
- Những
nhận định, đánh giá thật sự mới mẻ, đặc biệt và có sáng tạo của các tác giả
khác để trích dẫn với mục đích so sánh, đánh giá, hoặc mượn quan điểm.
- Những nhận
định, đánh giá, phê phán sai lầm, để phê phán hay phản bác khi cần thiết.
- Bổ sung những nhận xét cá nhân về
các nội dung tác giả đã trình bày, đánh giá những khía cạnh có ý nghĩa cho
đề tài của mình.
- Ghi chép các ý tưởng nảy
sinh trong lúc đọc tài liệu
+ Ghi lại những quan điểm đồng tình
hay phê phán của mình khi nghiên cứu.
+ Khi
phân loại tài liệu, bổ sung, sửa chữa, nhận định và ghi chú một cách chi tiết
những gì cần thiết cho công việc chấp bút, sẽ có nhiều ý tưởng rất mới lạ, sáng
tạo xuất hiện trong tâm trí tác giả. Lúc ấy, người nghiên cứu phải ghi chép
liền, bằng không các ý tưởng ấy rất dễ dàng tan biến và mất đi.
- Xếp đặt tài liệu theo kết cấu kim
tự tháp ngược Việc đầu tiên là tập hợp thông tin. Sau đó, sắp xếp chúng. Cách
đơn giản nhất là theo thứ tự quan trọng giảm dần.
5.3. Kĩ thuật ghi chú
- Cần có thẻ ghi chú
*
Phân loại phiếu, thẻ
- Phiếu
ghi trích dẫn
- Phiếu ý
tưởng.
- Phiếu phản
biện.
- Phiếu nhận
xét
- Phiếu tóm
tắt…
- Các loại
phiếu này lại được phân loại, sắp xếp theo vấn đề, theo chương, mục để tiện sử
dụng.
- Thẻ có tên chủ đề (và một vài từ chìa khóa để
giúp nhà nghiên cứu nhận dạng chúng dễ dàng).
- Nguồn trích
dẫn được ghi đầy đủ (tên tác giả, tên tác phẩm, chương/mục/trang cần tham
khảo...
- Đối với những câu, đoạn nguyên tác
mà người nghiên cứu sẽ dẫn chứng sau này, nên ghi chú theo phong cách trích
dẫn, nghĩa là chép lại nguyên văn, không thêm thắt và đặt phần ghi chép này
trong ngoặc kép, để dễ dàng kiểm tra chính tả về sau. (phần này cần cẩn thận,
ghi chú rõ ràng).
- Đối với các ghi chú chỉ để tham khảo tư tưởng, chỉ
cần tóm tắt đại ý của văn bản nguyên tác bằng ngôn ngữ và văn phong của riêng
của mình và không để trong ngoặc kép.
6.3. Kỹ thuật diễn ngữ trong ghi chú
tài liệu
- Trong
ghi chú tài liệu có một kỹ thuật cơ bản, giúp người nghiên cứu biến cái của mọi người thành của mình đó là: Kĩ thuật
diễn ngữ - kỹ thuật trích rút thông tin.
*
Khái niệm “Diễn ngữ”
Diễn ngữ (paraphrase) là cách
diễn đạt lại các ý tưởng của một tác giả khác bằng ngôn ngữ riêng của mình.
*
Lợi ích của diễn ngữ
- Dùng để trích dẫn (phải
có nguồn thông tin):
+ Nhờ thông tin gốc được tái cấu
trúc và diễn đạt lại bằng ngôn ngữ của chính người viết, bài viết có sử dụng
diễn ngữ sẽ rõ ràng, dễ hiểu hơn, văn phong, logic giữ được sự thống nhất. Phần trình bày hay hơn, mang dấu ấn của
chính tác giả.
+ Trong trường hợp tài liệu gốc
có sử dụng các thuật ngữ khó hiểu hoặc không phù hợp với vấn đề cần trình
bày, diễn ngữ cũng có thể giúp giải quyết được vấn đề.
+ Dùng diễn ngữ giúp loại bỏ sự nặng
nề nếu phải trích dẫn nguyên văn quá nhiều trong bài viết, đồng thời đảm bảo
tính xác thực thông tin và tôn trọng tác quyền trong bài viết khoa học.
- Mượn quan điểm:
+ Để truyền tải nội dung nghiên cứu
của mình (trùng quan điểm với những người đã đi trước, vấn đề đã quá rõ…).
*
Phương pháp diễn ngữ
- Diễn để trích dẫn
+ Thay thế bằng từ đồng nghĩa
+ Chỉ thay thế một số từ (để dễ hiểu
hơn, để súc tích hơn…).
- Diễn
nghĩa để mượn quan điểm, mượn ý tưởng:
+ Thay từ đồng nghĩa, dùng các từ
mình quen thuộc, làm chủ được.
+ Thêm từ (thêm nhiều tính từ, động
từ, nếu muốn nhấn nhá), bớt từ
+ Thay đổi cấu trúc câu, thay đổi
trật tự câu.
+ Thực hiện
những thay đổi đơn giản khác nếu phù hợp (lược bớt từ, ngắt lại câu..).
Lưu ý: Cuối cùng đối chiếu kết quả diễn ngữ với văn bản gốc, để so
sánh, sửa đổi một cách tốt nhất. Đảm bảo hai yêu cầu:
(1). Diễn để trích dẫn: Không khác
xa so với nguyên gốc ban đầu 20%.
(2). Diễn để mượn ý tưởng: Càng khác
xa, càng tốt, khoảng 60-80%.
4. Đề cương luận văn, luận án
4.1. Một số điều lưu ý
- Có một số học
viên và nghiên cứu sinh phác thảo dàn bài trước sau đó tìm đọc sách ở thư viện
sau.
- Theo kinh
nghiệm cá nhân của chúng tôi, tham khảo tư liệu trước rồi phác thảo Đề cương
sau thường chu đáo hơn và toàn diện hơn.
- Có
hailoại đề cương: Đề cương giản lược và đề cương chi tiết, trong đó đề cương
giản lược là bước 1, không thể thiếu.
- Nên xây dựng từ 2-3,4 đề cương
giản lược khác nhau. So sánh, đánh giá, để:
+ Từ đó chọn một đề cương tối ưu,
đáp ứng được các tiêu chí như có tư liệu để thực hiện, phản ánh đầy đủ nội dung
nghiên cứu.
+ Hoặc kết hợp để tìm ra một đề
cương tương đối ổn hơn cả.
-
Đề cương phải thể hiện được:
+ Ý tưởng
nghiên cứu của tác giả, hướng nghiên cứu, hướng giải quyết vấn đề.
+ Mục tiêu, nhiệm vụ mà luận văn, luận
án triển khai nghiên cứu.
- Tính cân đối của bố cục (chương,
tiết, tiểu tiết) là rất cần thiết.
+ Cũng như một
ngôi nhà, đề cương luận văn, luận án được xem như khung sườn. Khung sườn càng cân đối
thì ngôi nhà càng vững chắc.
- Luận văn thường được kết cấu 3
chương, luận án thì có thể 4 chương
4.2. Phác thảo đề cương chi tiết
- Đề cương chi tiết là phác những
bước, những nội dung cần thiết để giải quyết nhiệm vụ nghiên cứu, mục đích
nghiên cứu. Dàn bài càng chi tiết càng tốt (định
nghĩa các thuật ngữ, khái niệm cần thiết; xác định phạm vi nghiên cứu; đặt vấn
đề trong bối cảnh có ý nghĩa; giới thiệu các thông tin, nội dung chính của đề
tài hay luận án…). Trong đề cương chi
tiết, phải nêu bật được đâu là vấn đề chính và phụ cũng như các chi tiết
cần có của các vấn đề chính và phụ đó.
- Nên làm để cương chi tiết, vì:
+ Có cái để so sánh và nhớ đựoc ý
tưởng ban đầu, vì lúc viết hay thay đổi (xoay nội dung, cách giải quyết) nên
khi so sánh, thấy được ưu, nhược, hướng thích hợp để giải quyết vấn đề nghiên
cứu… Nhiều khi thay đổi mãi, người nghiên cứu lại quay trở lại với ý tưởng ban
đầu.
+ Giúp có cái nhìn bao quát và liên
tục về ý tưởng về tất cả những gì sẽ viết và phải viết; qua đó, sẽ cân nhắc kỹ lưỡng về tính cân đối giữa
các phần và các luận điểm minh họa chúng; tránh được lỗi viết lạc đề.
+ Dù có bị gián
đoạn trong khi viết do bận công việc, người viết cũng có thể tiếp nối lại ý
tưởng đang viết dở dang một cách dễ dàng.
5. Triển khai
viết luận văn, luận án
5.1. Phần mở
đầu
Đây là phần
rất quan trọng, vì theo kinh nghiệm, các thành viên Hội đồng thường đọc rất kỹ
phần này để kiểm tra kỹ năng của học viên và nghiên cứu sinh.
* Lý do lựa chọn đề tài
- Nêu bật tầm quan trọng của:
+ Lĩnh vực nghiên cứu
+ Nội dung nghiên cứu cụ thể
+ Đặt kết quả nghiên cứu sẽ đạt được trong mối liên hệ với thực tiễn và
lý luận, nhằm chỉ ra giá trị của vấn đề nghiên cứu trên hai phương diện đó.
- Tóm lại,
cần chứng minh hai vấn đề:
+ Lý luận
đòi hỏi điều gì
+ Thực tiễn
đòi hỏi điều gì
- Chú ý: Lý do lựa chọn đề tài nên viết súc tích, mang
tính luận giải, không nên miêu tả, không nên có trích dẫn.
- Dung lượng khoảng 1, 5- 2 trang A4.
*
Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Tầm quan
trọng của lịch sử nghiên cứu vấn đề:
- Khi khảo cứu các nghiên cứu liên hệ trực tiếp và gián tiếp đến chủ đề nghiên cứu,
chính là phương thức đứng trên vai người khổng lồ để thực hiện công việc
nghiên cứu.
- Lịch sử đề tài cho người đọc biết hiện có tất cả bao nhiêu công trình đã
viết về đề tài đang nghiên cứu, cũng như các phương pháp nghiên cứu của các
công trình đó.
- Giúp cho người viết biết được các khuynh hướng nghiên cứu trước đây và
đâu là ưu, khuyết điểm của chúng, để thừa kế, phát huy hoặc rút kinh nghiệm.
- Lịch sử nghiên cứu vấn đề còn giúp cho người nghiên cứu xác định dứt
khoát về phạm vi nghiên cứu cũng như phương pháp nghiên cứu cho đề tài của
riêng mình.
- Lịch sử
nghiên cứu vấn đề còn giúp cho người nghiên cứu tránh được những nghiên cứu
trùng lập không cần thiết và đi sâu vào những góc độ khác với những đóng góp
mới, hay khám phá mới cho lĩnh vực nghiên cứu đó.
- Điểm lược
lịch sử đề tài là công việc vô cùng quan trọng đối với học viên cao học và
nghiên cứu sinh. Công việc này không chỉ được tiến hành hay dừng lại ở khâu
viết Đề cương mà còn được tiếp tục xuyên suốt thời gian viết luận văn,
luận án. Mỗi lần phát hiện ra tài liệu mới liên hệ đến đề tài, nghiên cứu sinh
phải bổ sung vào lịch sử nghiên cứu vấn đề của mình, cũng như vào phần tài liệu
tham khảo.
Cách viết
- Về nguyên
tắc:
+ Sách giáo
khoa, giáo trình (kiến thức nền), văn kiện, nghị quyết (tài liệu gốc)
không được đưa vào Lịch sử nghiên cứu vấn đề.
+ Viết tổng quan tài liệu là cách viết
đánh giá các nghiên cứu đã công bố có liên quan đến vấn đề nghiên cứu đang được
đề cập.
+ Lưu ý rằng, tổng quan tài liệu
không phải là sự tóm tắt, liệt kê các nghiên cứu
đã được công bố, mà là tóm tắt, đánh giá có hệ thống các nghiên cứu đã công bố.
- Yêu cầu cần đạt tới:
+ Chỉ ra mối liên quan giữa các
nghiên cứu đó và mối quan hệ của chúng với vấn đề nghiên cứu đang được đề cập, đồng thời đánh giá được ưu điểm và khuyết điểm của
các nghiên cứu trước đó, có chỉnh lý, bổ sung (sự kiện, con số, ngày tháng,
năm…Điều này khó, nhưng thường được đánh giá cao, thực hiện bằng phương pháp
phân tích- so sánh, dựa chắc vào tư liệu gốc).
+ Thống kê
tương đối đầy đủ tác phẩm đã viết về đề tài, đặc biệt phải đề cập, phân tích
những tác phẩm căn bản, chủ chốt, quan trọng nhất.
+ Tóm tắt tất
cả các thành quả nghiên cứu trong quá khứ và phải được trình bày một cách có
logic trong mối liên hệ trực tiếp đến mục đích nghiên cứu của đề tài.
+ Sau khi nêu bật các thành tựu cũng
như thất bại của các nghiên cứu trong quá khứ, nhà nghiên cứu phải trình bày
một cách cô đọng phương pháp tiếp cận mới cũng như phương hướng nghiên cứu mới
của mình.
+ Nhà nghiên cứu phải khẳng định
được những điều sau:
1). Các khuynh hướng nghiên cứu
chính trong những công trình đã được khảo cứu là gì?
2). Có rất nhiều vấn đề chưa rõ ràng, chưa được làm sáng tỏ và
chỉ ra những vấn đề đó.
3) Chỉ rõ hướng nghiên cứu của mình
theo hướng hệ thống, toàn diện để bổ sung và
khoả lấp những khoảng trống trong nghiên cứu.
- Cách phân
loại tư liệu trong Lịch sử nghiên cứu vấn đề:
+ Theo biên niên: Điểm qua theo năm xuất bản đầu tiên của chúng.
Quyển nào xuất bản trước thì điểm trước và sau thì điểm sau. Cách điểm lược này
không hấp dẫn lắm và tỏ ra đơn điệu, máy móc.
+ Theo tầm
quan trọng của tác phẩm: Tác phẩm nào quan trọng nhất thì được giới thiệu
trước hay sau cùng để làm nổi bật hướng nghiên cứu trước đây,
+ Theo nội
dung: Các tài liệu có chung nhóm vấn đề nghiên cứu.
+ Theo nơi
xuất bản: Trong nước, nước ngoài, sau đó lại tiếp tục phân chia theo tầm quan
trọng, theo nhóm vấn đề…
+ Theo tác
giả: Tác giả người trong nước, người nước ngoài; tác giả là các nhà lãnh
đạo, các nhà nghiên cứu chuyên sâu, các nhà nghiên cứu, những người mới nghiên
cứu (học viên cao học, NCS).
+ Theo môn
loại: Bài tạp chí, sách tham khảo, chuyên khảo, luận án, luận văn…
+ Theo hình
thức lưu trữ: Đã công bố, chưa công bố…
+ Theo
phương pháp nghiên cứu chủ đạo của tài liệu: Cách này ít thông dụng.
* Mục đích và
nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu được triển
khai trên nguyên tắc làm rõ, làm sáng tỏ những vấn đề cốt yếu làm nên đối tượng
nghiên cứu, từ đó hướng tới mục đích chủ chốt, chính nhất là đưa ra kinh
nghiệm, phương hướng, giải pháp cho vấn đề nghiên cứu (thường gắn với các cụm
từ làm rõ, làm sáng tỏ…).
+ Trả lời câu hỏi “nhằm vào việc
gì?”, hoặc “để phục vụ cho điều gì?”.
- Đối với chuyên ngành triết học,
CNXHKH thường có:
+ Mục tiêu nghiên cứu về lý luận
+ Mục tiêu nghiên cứu về thực trạng
+ Mục tiêu nghiên cứu đề xuất phương
hướng, giải pháp
- Lưu ý:: Tuỳ theo tính chất từng đề tài mà nhấn mạnh mục tiêu.
Ví
dụ: Đề tài tổng kết thực tiễn thường không đặt mục tiêu sáng tạo lý luận. Dựa
vào lý luận đã có, tổng hợp làm cơ sở để phân tích thực trạng…
- Nhiệm vụ nghiên cứu được
xác định bám sát mục đích nghiên cứu, là những bước đi cần thiết để đạt mục
đích nghiên cứu (thường gắn với các cụm từ phân tích, đi sâu nghiên cứu, chỉ
rõ, khái quát…).
+ Nhiệm vụ nghiên cứu là nền tảng
hoạt động của LV. Mục tiêu trả lời câu hỏi “làm cái gì?”.
Lưu ý: Không nên xác định quá nhiều (hơn 4) nhiệm vụ nghiên cứu,
vì sẽ làm vụn, tủn mủn nhiệm vụ nghiên cứu, làm rườm rà phần nhiệm vụ nghiên
cứu; hơn thế, nhiều nhiệm vụ nghiên cứu, người chấm sẽ soi, tìm tòi trong nội
dung luận văn, luận án xem vấn đề đã đủ chưa, độ nông sâu, dung lượng giữa các
nhiệm vụ nghiên cứu được giải quyết như thế
nào? Nên nhóm lại thành những nhiệm vụ “ra tấm, ra món”.
*
Đối tượng, phạm vi nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
+ Cần xác định rõ, phản ánh đúng, đủ
nội hàm của đề tài nghiên cứu; bám sát vào tên đề tài để xác định.
+ Là bản chất của sự vật hay hiện
tượng cần xem xét và làm rõ trong nhiệm vụ nghiên cứu.
- Phạm vi nghiên cứu: Đề tài nào cũng cần phải có giới hạn nhất định của
nó. Không giới hạn phạm vi nghiên cứu thì chủ đề sẽ mông lung và không thể nêu
bật được đâu là vấn đề trọng tâm của nghiên cứu. Nói cách khác, người nghiên
cứu đặt vấn đề nghiên cứu vào điều kiện cụ thể hơn, loại bỏ những khả
năng hạn chế kết quả nghiên cứu trong quá trình nghiên cứu, nhằm đạt mục tiêu
nghiên cứu.
- Tuỳ theo yêu cầu, điều kiện cho
phép mà giới hạn phạm vi nghiên cứu. Thông thường có thể giới hạn:
+ Giới hạn về mặt nội dung khoa học:
Những nội dung khoa học chính, chủ chốt, phản ánh bản chất của đề tài nghiên
cứu, không tham lam, ôm đồm.
+ Giới hạn về không gian nghiên cứu.
+ Giới hạn về thời gian nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu
Cần chú ý ba thể loại:
- Phương pháp luận: Đây
là phương pháp bao trùm từ đầu đến cuối- chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử mà cốt lõi là phép biện chứng (yêu cầu xem xét các hiên tượng trong
các mối liên hệ, sự quy định lẫn nhau, về vận động, biến đổi và phát triển…).
- Phương pháp tổng quát (phổ quát):
Lịch sử – lôgíc, phân tích và tổng hợp, quy nạp và diễn dịch…
- Phương pháp cụ thể: Phỏng
vấn, thống kê, điều tra xã hội học.
Các phương pháp này không nên chỉ
liệt kê đơn thuần, mà nên chỉ rõ được sử dụng chủ yếu ở phần nào, chương nào
trong luận văn, :A.
*
Nguồn tài liệu và hướng sử dụng
- Nguồn tài liệu là cơ sở lý luận
cho đề tài (tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác- Lênin và Hồ Chí Minh về vấn
đề nghiên cứu).
- Nguồn tài liệu gốc.
- Tài liệu tham khảo quan trọng
(thường là của những cơ quan uy tín, các nhà xuất bản uy tín công bố)
- Nguồn tài liệu bổ trợ (liên quan,
gián tiếp).
*
Đóng góp của luận văn, luận án
- Thường có đóng góp trên 2 nội
dung:
+ Về nội dung khoa học:
- Bám sát vào mục đích nghiên cứu,
nhưng cần được diễn đạt bằng những từ ngữ khác, cô đọng hơn để tránh trùng lặp.
- Giá trị nội dung khoa học làm nên
đóng góp cung cấp tri thức (làm tài liệu tham khảo cho lĩnh vực nghiên
cứu hoặc môn học có liên quan; đề tài địa phương- góp phần viết lịch sử địa
phương).
+ Về tư liệu
Khai thác tư liệu mới, chưa công bố.
Danh mục tài liệu tham khảo- cũng là
đóng góp cho công tác nghiên cứu đề tài có liên quan
* Bố
cục lớn của luận văn, luận án
- Nêu tên chương.
5.2. Phần nội dung luận văn, luận án
*
Tính cân đối của luận văn, luận án
- Sự đồng đẳng
về số trang của các chương - không nhất thiết, nhưng cần, không nên chênh lệch
quá; chỉ nên chênh nhau dưới 10 trang (10 trang đã là không lý tưởng, tốt nhất
là dưới 5 trang).
- Cân đối về
nội dung các vấn đề được giải quyết, mỗi chương đóng một chức năng, có một vai
trò và nhiệm vụ khác nhau nhưng đều góp mặt để làm nên vấn đề cần giải quyết,
do vậy, nên cân đối trong phân chia vấn đề nghiên cứu để cùng nỗ lực làm cho
tổng thể của luận văn, luận án đạt được mục đích nghiên cứu trong sự cân đối
cần thiết.
- Các vấn đề phụ,
nội dung phải ngắn hơn các vấn đề chủ chốt – đây là nguyên tắc tối thiểu.
*
Đặt tên chương, mục, tiểu mục
- Đây là bước đi quan trọng vì tên đề mục là một trong những yếu tố quyết định sự
thành công của luận văn, luận án
- Yêu cầu :
- Từ tên đề tài cho đến từng chương,
mục, phụ mục đều phải được đặt tên một cách cẩn thận, hợp lí, phù hợp mục đích
nghiên cứu; làm nổi bật cách thức lý luận để hướng người đọc đi đến những kết
luận cần thiết; làm nổi bật quan điểm độc lập của người nghiên cứu.
+ Tên chương mục phải được chau
chuốt, thể hiện sinh động nội hàm của vấn đề nghiên cứu, từ ngữ chính văn.
+ Hạn chế dùng các loại dấu trong
các tên chương, tiết, mục, tiểu mục và không dùng câu hỏi (trừ dầu ngoặc đơn;
hoặc đôi khi có thể dùng dấu gạch ngang).
+ Tên phải rõ
ràng và dễ hiểu, tránh những cách đặt tên quá trừu tượng, "bác học".
+ Không biểu hiện sắc thái nhận
định, phê phán...;
+ Phải biểu hiện được tổng thể nội
dung bên trong;
+ Hình thức tương đối đồng nhất,
nhưng cũng không nên quá đơn điệu;
+ Không quá ngắn hay quá dài, mà
phải hài hoà với cấu trúc trình bày tổng thể (ví dụ như tên chương, mục của
chương 1 dài, chương 2, 3 lại quá ngắn).
+ Tuỳ theo văn phong chuyên
ngành mà đặt tựa chương mục, tránh những cách sử dụng quá lạ lẫm hay khác biệt
so với các tài liệu khác cùng chuyên ngành (dù tính độc đáo riêng biệt của mỗi
đề tài vẫn luôn được đề cao).
- Các lỗi thường gặp khi đặt tên
chương, mục :
+ Tên dài, rườm rà.
+ Hoặc đơn điệu quá, khuôn mẫu quá
*
Nguyên tắc viết
- Việc phát triển
nội dung từ dàn ý đòi hỏi người viết phải nắm được một số quy tắc nhằm hoàn
chỉnh bản thảo theo đúng các yêu cầu khoa học chuyên ngành.
1). Luôn
thể hiện óc phân tích để luận án, luận văn có chiều sâu, tránh tình trạng mô tả
hời hợt để chỉ thấy bề mặt vấn đề (tăng cường các luận giải ngắn gọn đối với
các khía cạnh nghiên cứu)
2). Đảm bảo
tính logic của vấn đề.
3). Viết
đơn giản, trường quy, vì ngôn ngữ khoa học đòi hỏi có sự chính xác cao,
rõ ràng, không gây nhầm lẫn trong cách hiểu vấn đề.
4).
Viết khái quát, tránh kể lể dài dòng, sa đà vào sự kiện; tránh tham lam, ôm
đồm, chỉ nên chọn sự kiện, vấn đề quan trọng, căn bản, then chốt.
*
Văn phong của luận văn, luận án
- Sử dụng văn phong chuyên ngành, từ
ngữ sáng sủa, dễ hiểu, đơn giản (không đồng nghĩa với đơn điệu. Cách viết đơn
điệu sẽ làm cho luận văn, luận án trở thành nhàm chán, thiếu tính thuyết phục).
Có chất văn trong "luận".
- Không dùng những ngôn ngữ mang màu
sắc chủ quan (như “Tôi” “chúng ta”..); không nên khẳng định quan điểm của mình
một cách tuyệt đối.
- Tránh những câu văn quá phức
tạp, rối rắm, hoặc bóng bẩy, văn hoa, màu mè, ẩn dụ, đa nghĩa...
- Để viết đơn giản và hiệu quả, cần:
+ Sử dụng từ vựng đa dạng, nhưng
chính xác.
+ Phối hợp hài hoà các cấu trúc câu
và cách thức diễn đạt;
+ Cắt bỏ các từ ngữ, câu, đoạn văn
thừa hoặc không cần thiết;
+ Nên sử dụng câu ngắn; thêm các từ
nhấn mạnh (một cách tổng quát, khái quát lại, tựu chung...).
+ Làm nổi bật trọng tâm vấn đề bằng
cách chia đoạn văn bản hợp lí.
+ Có cách dẫn dụ, chuyển đoạn hợp lý
(đoạn lớn) theo nguyên tắc bắc cầu.
*
Những yêu cầu về nội dung
- Khi phân tích vấn đề, hoặc các
khía cạnh của vấn đề nghiên cứu, cần đặt nó vào điều kiện lịch sử cụ thể, trong
tổng thể các mối liên hệ, để có những nhận định, đánh giá bình tĩnh, khách quan
(nhất là trong khi viết về thực trạng).
- Các vấn đề, nội dung nghiên cứu
phải được đặt trong mối quan hệ so sánh để thấy sự khác biệt, sự phát triển.
- Phải chỉ ra đặc điểm, đặc trưng
của giai đoạn nghiên cứu và vấn đề nghiên cứu nói chung.
- Các vấn đề được trình bày phải
được nối, xâu chuỗi lại với nhau, tránh tình trạng rời rạc, người đọc phải mò
mầm đi tìm lời giải, đi tìm ý đồ của tác giả.
*
Viết tiểu kết chương
Đây là phần quan
trọng, vì các thành viên Hội đồng thường đọc để kiểm tra khả năng khái quát,
đánh giá, luận giải của học viên. Cần phải đầu tư vào phần này, để viết đạt tới
độ thăng hoa.
- Tiểu kết là kết luận lại những vấn
đề đã được giải quyết trong chương - kết luận nhỏ của chương.
- Tiểu kết cần được viết thật chặt
chẽ trong luận lý, diễn giải, cô đọng và súc tích. Ngôn ngữ phải tránh trùng
lặp với những phân tích, đánh giá, thuyết minh đã có trong chương, bởi vì,
những luận giải chủ yếu, cơ bản nhất đã được rải đều trong chương. Ở tiểu kết,
chỉ kết lại những luận giải, kết luận đó. Đây là phần khó nhất.
- Tiểu kết chương còn phải bắc cầu
sang chương sau. Tiểu kết chương cuối không cần điều này, mà phải chốt lại
những vấn đề cốt lõi của toàn bộ nội dung nghiên cứu.
- Viết khoảng 1- 1,5 trang A4, không
viết dài hơn.
*
Viết Kết luận
- Trình bày những kết quả mới của
luận văn, luận án một cách ngắn gọn, không có lời bàn và bình luận thêm.
- Kết luận bám sát vào Mục đích
nghiên cứu và Đóng góp của luận văn, luận án. Diễn đạt cô đọng,
không lý giải, bằng sự diễn đạt đã mang tính khác biệt (từ ngữ khác) so với
cách diễn đạt ở Mục đích nghiên cứu và Đóng góp của luận văn, luận
án.
*
Danh mục tài liệu tham khảo
- Tài liệu tham khảo được coi
như một trong những đóng góp của học viên, nghiên cứu sinh cho các nhà nghiên
cứu vấn đề trong lĩnh vực đó, hoặc liên quan.
- Tài liệu tham khảo được định nghĩa như một nghệ thuật khám phá thông
tin về sách vở và truyền bá thông tin đó cho người đọc, hay sự tập hợp thông
tin về sách vở và tài liệu liên hệ đến chủ đề, lĩnh vực nghiên cứu.Cho
nên không được coi thường cách chọn lọc tài liệu đưa vào Tài liệu tham khảo.
- Tài liệu tham khảo phải đạt
những yêu cầu sau:
+
Mô tả có hệ thống về toàn bộ hay lịch sử xuất bản về đề tài nghiên cứu đó (các
năm xuất bản khác nhau).
+ Đề cập đến các
nguồn gốc thông tin về sách tham khảo và là bản liệt kê có hệ thống danh sách
các tài liệu có cùng tính chất hay chung đặc điểm, chẳng hạn như cùng chủ đề
hay cùng tác giả
+ Sách giáo khoa, giáo trình, luận
văn tốt nghiệp của sinh viên không nên (không được) đưa vào danh mục tài liệu
tham khảo (vì luận văn của sinh viên không được đánh giá cao). Luận văn, luận
án của học viên cao học và nghiên cứu sinh thì có thể sử dụng được, nhưng nên
hạn chế (luận văn không được đánh giá cao; luận án vẫn coi như chưa được hoàn
chỉnh, còn cần chỉnh sửa sau Hội đồng bảo vệ cấp Nhà nước, cho nên không nên
trích dẫn).
+ Phải gồm những tác phẩm nền tảng,
quan trọng, kinh điển và những tài liệu mang tính cập nhật nhất. Tài liệu đa
dạng về môn loại.
- Nên có các
tài liệu tham khảo bằng tiếng nước ngoài và từ những website có uy tín.
+ Chỉ bao gồm các tài liệu được
trích dẫn, sử dụng và đề cập tới để bàn luận trong luận án (các cơ sở đào tạo
yêu cầu khác nhau).
*
Phụ lục
- Đây là các nội dung cần thiết nhằm
minh họa hoặc bổ trợ cho nội dung luận văn, luận án, cung cấp các chi tiết giúp
làm hoàn chỉnh một số phần trong luận văn, luận án như: Số liệu, mẫu biểu,
tranh ảnh; một số phiếu điều tra, thăm do tiêu biểu.
- Có hai cách đưa phụ lục:
+ Phụ lục chỉ nhằm làm sáng tỏ hơn
những nội dung cụ thể của luận văn,luận án (lấy ví dụ; xem phụ lục số…); đồng
thời Phụ lục giúp luận văn, luận án đỡ rối rắm, do vậy, nhiều bảng biểu,những
nội dung minh hoạ, những bảng biểu thống kê… nên ddwa sang Phụ lục.
+ Phụ lục góp phần làm hình dung
chung về vấn đề nghiên cứu trở nên đầy đủ hơn (cách thông dụng nhất).
- Cách làm phụ lục
+ Phụ lục
phải tiêu biểu, có nguồn rõ ràng.
+ Phụ lục
không được dày hơn phần chính của luận án.
- Mỗi phụ lục được đặt tựa riêng thể
hiện được nội dung bên trong và cần được gọi
tham khảo ít nhất một lần trong bài viết (xem thêm phụ lục số…; theo số
thứ tự phụ lục).
- Thứ tự cần được sắp xếp theo một
quy tắc nhất định: Theo thứ tự gọi tham khảo trong luận án, luận văn, hoặc theo
tầm quan trọng, hoặc đơn thuần là theo trật tự ABC, hoặc theo trật tự: Phụ lục
bảng biểu, phụ lục chữ, phụ lục sơ đồ, phụ lục tranh ảnh…
*
Tóm tắt luận văn, luận án
- Bản tóm tắt luận văn, luận án (abstract)
là bản phúc trình về một công trình nghiên cứu, nhằm tóm lược các điểm chính
yếu, các khám phá hay đóng góp của học viên, nghiên cứu sinh về một đề
tài nào đó.
- Tóm tắt Luận án phải phản ánh
trung thực toàn bộ nội dung luận văn, luận án, mà khi nhìn vào, người đọc lập
tức có ngay hình dung chung, cơ bản về toàn bộ nội dung luận văn, luận án.
- Bản
tóm tắt luận văn, luận án phải được viết bằng một văn phong cô đọng, ngắn gọn
và rõ ràng về tầm quan trọng của đề tài nghiên cứu, về đối tượng, phạm vi và
phương pháp nghiên cứu, về lịch sử nghiên cứu đề tài, cấu trúc chương và về
những đóng góp riêng của luận văn, luận án. Cho nên Phần mở đầu cần rút
ngắn gọn. Về Nội dung: Diễn giải cho người đọc thấy qua các chương,
tiết, tại sao tác giả lại giải quyết vấn đề bằng cách đi, con đường như vậy và
đi tới kết luận gì, đạt kết quả gì?
- Ngôn
ngữ của luận văn, luận án thường là ngôn ngữ giả thuyết, ngôn ngữ chứng minh
cho một vấn đề. Trong khi đó, ngôn ngữ của bản tóm tắt luận án là ngôn ngữ
khẳng định, ngôn ngữ của kết quả nghiên cứu. Mỗi đóng góp riêng của luận văn,
luận án thường được trình bày bằng
một đoạn độc lập với sự hỗ trợ của các luận điểm có hệ thống và logic.
5.3. Biên tập
luận văn, luận án
- Phải biên tập
một cách kỹ lưỡng (một vài lần)
- Người nghiên
cứu phải có trách nhiệm trong việc đảm bảo tác phẩm của mình không có lỗi chính
tả và văn phạm; không có vấn đề về quan điểm; không có sai sót trong luận giải,
phân tích, hoặc thiếu sự chặt chẽ hay tính logic.
- Tự mình biên
tập lần một, nhất là dbên tập kỹ thuật.
- Những lần sau
nên nhờ người khác, vì bản thân người viết thường mặt định, khó phát hiện chính
lỗi của mình. Nên in bông rồi đọc, đọc trên máy vi tính khó phát hiện lỗi. Vê
biên tập nội dung (phần này cơ bản, quan trọng nhất), nên tham khảo và nhờ sự giúp đỡ của các
chuyên gia trong lĩnh vực này.
- Tốt nhất,
người viết nên kiểm tra và biên tập lại bản thảo cuối cùng về các phương diện
như cách trình bày tiêu đề (heading), các tiêu đề phụ (sub-heading),
trích dẫn (quotation), phụ lục (appendice), bảng chú thích thuật
ngữ (glossary), tài liệu tham khảo (bibliography) …Người biên tập
phải đặt mình trong vai trò của người đọc khó tính chứ không phải là
người viết, nhằm phát hiện tất cả những lỗi còn sót để sửa chữa cho hoàn hảo
(lỗi nội dung và kỹ thuật).
- Trau chuốt câu văn, tập trung phát
hiện các lỗi sai được thể hiện rõ ràng trong văn bản, chẳng hạn như các lỗi
chính tả, ngắt câu không đúng cách, các câu văn sai ngữ pháp, lặp từ quá nhiều
trong một đoạn…
- Đọc thành tiếng những chỗ cảm thấy
chưa ổn, làm như thế sẽ giúp dễ dàng phát hiện ra các câu chữ còn tối nghĩa,
lủng củng, gây hiểu nhầm và phản cảm cho người đọc.
- Tại lần kiểm tra tiếp theo (thứ
hai, thứ ba), hãy phát hiện thêm những chỗ sai sót một lần nữa, tập trung vào
những điểm bất hợp lý và mâu thuẫn nhau còn tồn tại trong văn bản (về logic, về
diễn đạt..).
- Cuối cùng, kiểm tra lại tổng thể
nội dung, hình thức, bố cục trình bày và tính thống nhất của mỗi luận
văn, luận án (cách dùng địa danh, tên nước ngoài, cách viết hoa..).
5.4. Một số vấn đề lưu ý trong xử lý
luận văn, luận án
*
Viết tắt
- Không lạm dụng việc viết tắt trong
luận án. Chỉ viết tắt những từ, cụm từ hoặc thuật ngữ được sử dụng nhiều lần
trong luận án. Không viết tắt những cụm từ dài, những mệnh đề; không viết tắt
những cụm từ ít xuất hiện trong luận án.
*
Cách trích dẫn
- Trích
dẫn nhằm mục đích:
+ Tóm tắt các ý kiến, giả thuyết,
kết luận của các tác giả khác, nêu ví dụ, kết quả đã được kiểm chứng, thừa nhận
để chứng minh cho quan điểm của mình, bảo vệ quan điểm, luận cứ khoa học;
+ So sánh quan điểm của các tác giả
đi trước, phản bác, phê bình quan điểm trái với mình, hoặc sai lệch
+ Dùng quan
điểm, nguồn thông tin khác để giải thích rõ vấn đề hơn (mượn quan điểm).
- Nguyên tắc vàng khi trích
dẫn:
+ Không nên trích những đoạn, những
nội dung quá dài; nguyên văn các đoạn dài vốn có thể tóm tắt ngắn gọn hoặc lược
bỏ các ý không cần thiết (diễn ngữ).
+ Không trích dẫn những lời trích
nhàm chán, khó hiểu hay lặp lại những gì đã rõ ràng quá rồi.
+ Không nên đưa những câu trích dẫn
liên tiếp, nối nhau.
+ Không trích dẫn những chi tiết
nhỏ;
+ Không nên
trích những ý có thể tự diễn đạt mà không lấy từ ý tưởng của người khác;
+ Không trích dẫn những kinh nghiệm,
ghi nhận, ý kiến của bản thân đã được công bố thông qua các sách, báo, tài
liệu.
+ Những kiến thức đã trở thành phổ
thông (ví dụ “vì lợi ích 10 năm trồng cây”…).
+ Nội dung trích dẫn không nên quá
30% nội dung của toàn luận văn, luận án.
+ Tránh làm nặng nề nội dung luận
văn, luận án khi trích dẫn (trích dẫn nhiều, vụn, trích dẫn đoạn quá dài (nửa
trang- nếu thế cho vào phụ lục, trích dẫn liên tục…). Điều này làm trở ngại
việc đọc. Tuy nhiên, trích dẫn quá ít, toàn luận giải và quan điểm của mình sẽ
bị cho là thiếu tính thuyết phục, chủ quan. Điều này phải được giải quyết hài
hoà.
+ Không nên
trích đi, trích lại (hơn 2 lần), dễ dẫn đến tình trạng nặng nề và đơn điệu
Quy tắc trích dẫn
- Tài liệu được trích dẫn
trong luận văn, luận án phải có trong Danh mục tài liệu tham khảo (trừ
những thông báo cá nhân và kết quả nghiên cứu chưa công bố).
- Chỉ trích dẫn và liệt kê trong
Danh mục tham khảo những tài liệu đọc được trực tiếp toàn văn.
- Cách trích dẫn phải linh hoạt, đa
dạng, phong phú trong toàn bộ luận văn, luận án đề tránh nhàm chán.
Các kiểu trích dẫn
- Trích dẫn trực tiếp
Trích dẫn nguyên văn, trích lại
nguyên vẹn văn bản gốc, tôn trọng từng câu, từng chữ, từng dấu câu được sử dụng
trong văn bản gốc được đặt trong ngoặc kép. Cách trích dẫn này mang tính thẩm quyền cao nhưng không nên lạm dụng và
chỉ trích dẫn khi nào thật cần thiết.
Các trích dẫn trực tiếp chỉ nên được
sử dụng khi từ ngữ nguyên gốc của tài liệu tham khảo quá hàm súc và cô đọng
nhiều ý tưởng và nhà nghiên cứu không thể viết hay hơn những lời lẽ đó. Trong
trường này, lời lẽ của đoạn trích dẫn sẽ làm tăng thêm sức mạnh cho văn bản của
bài khảo luận hay luận án.
- Áp dụng cho
các đoạn nguyên tác dù có những sai suất về chính tả, văn phạm hay cách dùng
từ.
- Các
trích dẫn trực tiếp được sử dụng khi nhà nghiên cứu muốn phê bình, đánh giá,
nhận định, phân tích các ý tưởng của các tác giả khác.
+ Trích dẫn diễn ngữ (paraphrase).
Khi thông tin có nguồn gốc từ
tác giả A, nhưng người viết không đọc trực tiếp tác giả A, mà thông qua một tài
liệu của tác giả B.
Không liệt kê tài liệu trích
dẫn gián tiếp trong danh mục tham khảo;
Một tài
liệu có yêu cầu khoa học càng cao thì càng hạn chế trích dẫn gián tiếp.
- Thêm từ vào trích dẫn
+ Trong vài
trường hợp, nhà nghiên cứu muốn làm rõ ý tưởng của đoạn nguyên tác, cần phải thêm
vào vài từ hay giải thích thêm vài chữ trong đoạn trích dẫn tương đối phức tạp
hoặc khó hiểu.
+ Mục đích:
Làm cho ý tưởng của đoạn trích được rõ
ràng và dễ hiểu hơn.
Lưu ý độc giả
về những chi tiết sai suất trong đoạn trích là thuộc về tác giả của nguyên tác,
chứ không phải của người trích dẫn. Trong trường hợp này, bạn không được tự ý
sửa chữa mà không cho tác giả và độc giả biết. Có hai cách lưu ý cho tác giả và
độc giả biết về các sai suất đó là: chú giải trong ngoặc, hiệu đính trong ngoặc
ngay sau từ, cụm từ hay câu có vấn đề hay cần làm rõ nghĩa thêm.
Làm cho đoạn
trích trở nên hoàn hảo hơn.
Biểu tỏ quan
điểm của người trích dẫn đối với tác giả của đoạn được trích dẫn.
+ Cách thêm từ:
- Đặt phần được
thêm vào trong dấu ngoặc, in nghiêng và bị chú bằng từ “TG” – tác giả.
6. Bảo vệ đề
tài, luận văn, luận án
6.1.Thiết kế bài thuyết trình khoa
học
Thuyết trình là một trong những
phương thức hiệu quả giúp truyền đạt thông tin một cách thuyết phục đến một nhóm
đối tượng nghe nhất định.
*
Quá trình chuẩn bị
- Để có một bài thuyết trình khoa
học tốt, trái với cách làm đơn giản là sao chép lại những gì đã có trong bài
viết, người thuyết trình cần phải:
+ Chuẩn bị tinh
thần;
+ Chuẩn bị thông điệp;
+ Chuẩn bị phương tiện cho buổi
thuyết trình của mình.
Chuẩn bị tinh thần là việc đầu tiên người thuyết trình cần làm trước khi trình
bày một vấn đề khoa học, nhằm tạo ra sự tự tin, loại bỏ những cảm giác sợ sệt,
lo lắng trước buổi thuyết trình.
Có ba cách chính để chuẩn bị tinh
thần, có tác dụng bổ sung lẫn nhau:
Làm chủ nội dung trình bày (không để sót những yếu tố mập mờ, vấn đề
trình bày không lộn xộn)
Tự tin vào bản thân, vì người thuyết trình phải là người hiểu rõ vấn đề được
trình bày hơn so với người nghe;
Dự kiến những câu hỏi mà cử toạ có thể đặt ra sau phần trình bày của mình.
Về mặt tâm lí, nói chung ngay cả các
giáo sư giỏi hay chuyên gia diễn thuyết đôi khi cũng không thể loại bỏ hết cảm
giác lo lắng trước một buổi thuyết trình nào đó, nên đối với học viên, NCS
chuyện thiếu tự tin trước buổi thuyết trình khoa học cũng là bình thường. Chỉ
cần cố gắng làm được tốt ba bước chuẩn bị như trên là đã góp phần quan trọng
dẫn đến thành công.
*
Các bước trình bày
- Chuẩn
bị thông điệp
Là việc quan trọng quyết định
sự chặt chẽ và tính thuyết phục của bài thuyết trình. Thông thường, bài thuyết
trình khoa học được thiết kế dựa trên một bài viết đã có sẵn. Điều này vừa có
điểm thuận tiện, lại vừa có điểm bất tiện:
+ Lập dàn ý chính xác cho thông điệp cần truyền đi qua bài
thuyết trình;
+ Nhấn mạnh các điểm cốt lõi và các ý quan trọng nhất trong thông điệp;
+ Sắp xếp những ý phụ quanh các ý chính này, sao cho có được một trình
tự lập luận chặt chẽ, dù không nhất thiết phải hoàn toàn đầy đủ.
Lưu ý:
- Phần “Mở đầu”, rút gọn và
cô đọng. Phần “Lý do lựa chọn đề tài” không nhất thiết phải giống y nguyên
như trong luận văn, luận án. Có thể viết lại, hay hơn, ngắn hơn, đi trực tiếp
vào vấn đề.
- Phần “Nội dung”, không nên
trình bày chi tiết theo dàn bài của chương, tiết. Mà lý giải với vấn đề nghiên
cứu, mình đã đi bằng con đường nào để đạt tới kết quả nghiên cứu, tại sao lại
đi con đường như vậy? Và kết quả nghiên cứu là gì (hết sức ngắn gọn, diễn giải
một chút).
*
Chuẩn bị phương tiện thuyết trình
Là bước chuẩn bị sau cùng cho một bài
thuyết trình tốt, nhưng ngược lại rất thường xuyên được nhiều người đưa lên
thành việc đầu tiên trong quá trình chuẩn bị. Cách làm ngược này là một
kiểu lệ thuộc vào phương tiện và công nghệ. Nếu không có một thông điệp tốt và
một tinh thần chuẩn bị sẵn sàng thì một bài trình chiếu đẹp đến mấy cũng không
thể dẫn đến thành công đúng nghĩa cho buổi thuyết trình. Ngược lại, khi đã
chuẩn bị tốt thông điệp cũng như về mặt tinh thần, người thuyết trình có thể
đạt được thành công với nhiều loại phương tiện trình diễn khác nhau.
- Bài
trình chiếu
Những nguyên tắc vàng của một bài thuyết trình khoa học là:
- Sáng sủa, mạch lạc;
- Dễ đọc, đơn giản;
- Phù hợp với cử toạ.
Để thiết kế được bài thuyết trình
đáp ứng được các nguyên tắc trên, ngoài một thông điệp tốt còn cần phải làm chủ
được các quy trình và kĩ thuật sau: sử dụng mẫu thiết kế; sử dụng màu
sắc; sử dụng phông chữ; trình bày chữ viết; sử dụng hình ảnh; sử dụng các bảng
và hình; sử dụng các sơ đồ; sử dụng các kiểu chuyển bản phim (transition); sử
dụng các hiệu ứng động (animation).
- Không dùng các yếu tố phụ
hoạ làm phân tán sự chú ý của cử toạ (như các yếu tố động; không sử dụng
một yếu tố kĩ thuật vì đặc tính kĩ thuật của nó, mà sử dụng các yếu tố kĩ thuật
tuỳ theo mục đích cần đạt được. Việc các đặc tính kĩ thuật trình chiếu bị sử
dụng sai mục đích sẽ làm giảm hiệu quả truyền đạt thông điệp chính của bài
thuyết trình. Vì vậy, tránh:
+ Sai ngữ pháp và chính tả
+ Câu dài và không có gạch đầu dòng
+ Chữ chạy lòng vòng, hoạt cảnh
nhiều, dùng âm thanh đệm vào chữ
+ Biểu đồ, hình minh hoạ quá phức
tạp
Đó là những yếu tố làm cho người
nghe cảm thấy chán và sao lãng vấn đề.
- Nên đặt tựa ngắn gọn, độc đáo;
- Sử dụng bình quân sáu dòng văn bản
trong mỗi bản phim;
- Nội dung mỗi dòng cần cô đọng ở
những ý cơ bản nhất của ý cần trình bày, không nhất thiết phải viết câu hoàn
chỉnh về ngữ pháp mà có thể rút gọn thành một ngữ hay tổ hợp ngữ danh/động từ,
và do đó càng nên tránh động tác chép-dán nguyên vẹn bản văn từ bài viết qua
bài thuyết trình (tránh nhiều chữ)
*
Thuyết trình
- Thuyết trình trong khoảng thời
gian cho phép (15-20 phút).
- Hãy tập trung vào những lập luận
chính.
- Hãy nói to, rõ và tự tin và nên
nhìn vào khán giả.
- Trong buổi thuyết trình hay bảo vệ
luận văn, cần ghi nhớ các nguyên tắc sau:
Cần tránh
- Không xin lỗi trước về sự thiếu
chuẩn bị hay về các khiếm khuyết của bài thuyết trình, vì điều đó chỉ gây sự
chú ý của người nghe vào các khiếm khuyết đó mà thôi;
- Không đọc Slide từ đầu đến
cuối, vì sẽ nhanh chóng mất kiểm soát sự chú ý của cử toạ (họ đến để nghe nói, còn nếu đọc thì họ sẽ tự đọc mà không
cần đến diễn giả);
- Đứng ở một vị trí sao cho không
che tầm nhìn của cử toạ lên màn hình;
- Giới thiệu tóm tắt nội
dung để giúp người nghe định hướng được các vấn đề sẽ trình bày;
- Đề
cập nhanh chóng vào chủ đề thuyết trình, tránh giới thiệu dẫn dắt dài dòng;
- Sử dụng tốt
các câu dẫn ý, vì nhờ đó có thể gây được ấn tượng sâu sắc cho người nghe;
- Kiểm soát được diễn tiến buổi thuyết
trình, có thể dừng lại, tiếp tục hoặc quay lui một cách nhịp nhàng ở bất cứ
thời điểm nào, sau bất cứ câu hỏi nào được đặt ra;
- Định vị nhanh chóng ở bất cứ điểm
nào trong các bản phim liên quan đến mỗi câu hỏi đặt ra.
- Phải có nhiệt hưyết, trong trình
bày và trình bày bằng suy nghĩ của chính mình. Tránh giọng nói đều đều, các
trình bày đơn điệu, tẻ nhạt. Cấn nhấn nhá, ngữ điệu, âm thanh giọng nói nhỏ,
to.. khi cần thiết.
*Các câu hỏi
thường gặp trong thuyết trình và bảo vệ luận án
-
Câu hỏi hướng vào các hạn chế của luận văn, luận án:
+ Về bố cục
(đòi hỏi tái cấu trúc lại)
+ Về lịch sử
nghiên cứu vấn đề
+ Về những nội
dung còn sơ sài (đòi hỏi làm rõ hơn, làm sâu hơn)
+ Các câu hỏi
về so sánh vấn đề
+ Điểm riêng
biệt, khác biệt của vấn đề, cách giải quyết vấn đề.
* Cách thức
trả lời
- Phải bình
tĩnh, tự tin trong khi trả lời.
- Luôn thể hiện
thái độ sẵn sàng đón nhận các câu hỏi.
- Có thể nhóm
vấn đề lại để trả lời cho gọn, tránh trùng lặp. Đây cũng là cách thể hiện học
viên am hiểu vấn đề
- Chân thành
trong kiến thức và trả lời (không nên quanh co nếu như không biết). Cái gì không biết thì nên khiêm tốn
trả lời là không biết, đừng qua mặt người chấm hay múa rìu qua mắt các chuyên gia. Hãy trả lời là
tiếp thu và tiếp tục nghiên cứu.
- Câu trả lời
nên rõ ràng, chính xác, cô đọng và gây ấn tượng.
- Các thành
viên Hội đồng thường tuyên bố là Học viên có thể không trả lời, song đó là cách
nói. Nếu muốn lấy điểm thì có thể không trả lời hết các câu hỏi, song cố gắng
trả lời một số câu, một số vấn đề.
- Nếu câu hỏi
không được rõ ràng, có thể diễn đạt lại câu hỏi rồi hỏi lại xem có đúng ý người hỏi không, hay có
thể yêu cầu người hỏi trình bày rõ ràng hơn.
Có
thể Dowload tại địa chỉ: https://sites.google.com/site/trithucvanhoa/phuong-phap-2
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét