Khái niệm
Khái niệm
là một trong số những thuật ngữ được sử dụng rộng rãi trong sách báo khoa học.
Khi sử dụng thuật ngữ khái niệm, người nghiên cứu cần phải hiểu "Khái niệm
là gì?”. Câu hỏi “Khái niệm là gì?” trước hết là câu hỏi (vấn đề) của triết
học. Vấn đề triết học này tuy đã được đặt ra và phân tích trong các sách giáo
khoa về logic học, lý luận nhận thức, phép biện chứng, nhưng hiện nay vẫn còn
nhiều ý kiến khác nhau.
Khái niệm là sản phẩm cao nhất của
nhận thức, bởi vì khái niệm là sự hiểu biết đúng đắn, tương đối toàn diện và có
hệ thống về bản chất của các hiện tượng (đối tượng), có thể chỉ đạo hoạt động
thực tiễn của con người trong quan hệ với các đối tượng ấy.
Nói đến khái niệm trước hết là nói
đến sự hiểu biết (tri thức) về bản chất của các hiện tượng. Hiện tượng và bản
chất tuy khác nhau song lại thống nhất với nhau, vì hiện tượng nào cũng được
phát khởi từ bản chất của nó, còn bản chất nào cũng được biểu hiện qua các hiện
tượng của mình.
Khái niệm tồn tại trong đầu óc của
con người, còn bản chất tồn tại trong thế giới. Bản chất là đối tượng của sự
phản ánh, còn khái niệm là sự phản ánh. Mặc dù có sự khác nhau đó, song bản
chất và khái niệm lại có sự thống nhất với nhau, vì nói đến khái niệm là nói
đến sự hiểu biết đúng đắn, phù hợp, trùng hợp của bản chất. Cho rằng khái niệm
là sự hiểu biết đúng đắn về bản chất của các hiện tượng, điều đó có nghĩa rằng,
những hiểu biết (những quan điểm, quan niệm, lý thuyết...) không đúng đắn (hoặc
chưa được xác nhận là đúng đắn) thì không phải là khái niệm. Thêm nữa, bất kỳ
bản chất nào cũng đều có nhiều phương diện, bởi thế nếu con người chưa hiểu
biết toàn diện và có hệ thống về một bản chất nào đó, thì sự hiểu biết ấy cũng
chưa phải là khái niệm.
Với tính cách là sự hiểu biết đúng
đắn, tương đối toàn diện và có hệ thống về bản chất của các hiện tượng, khái
niệm có thể chỉ đạo con người hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới. Nếu không
có được sự hiểu biết đúng đắn về bản chất của các hiện tượng thì nhất định con
người không thể cải tạo được thế giới, bắt nó phục vụ cho cuộc sống của mình.
Tóm lại, vì là sự hiểu biết đúng đắn, tương đối toàn diện và có hệ thống về bản
chất của các hiện tượng, nên khái niệm chính là sản phẩm cao nhất của nhận
thức,và trên nó chỉ có thể là hoạt động thực tiễn hiện thực hóa khái niệm.
Một cách tổng quát, “Khái niệm” là quá trình nhận
thức hay tư duy của con người bắt đầu từ những tri giác hay bằng những quan sát
sự vật hiện thực tác động vào giác quan. Như vậy, “khái niệm” có thể hiểu là
hình thức tư duy của con người về những thuộc tính, bản chất của sự vật và mối
liên hệ của những đặc tính đó với nhau. Nhà khoa học hình thành các “khái niệm”
để tìm hiểu mối quan hệ giữa các "khái niệm" với nhau, để phân biệt
sự vật này với sự vật khác và để đo lường thuộc tính bản chất của sự vật hay
hình thành "khái niệm" nhằm mục đích xây dựng cơ sở lý luận
Phán đoán
Trong nghiên cứu, nhà nghiên cứu thường vận dụng các khái niệm để phán
đoán hay tiên đoán. Phán đoán là vận dụng các khái niệm để phân biệt, so sánh
những đặc tính, bản chất của sự vật và tìm mối liên hệ giữa đặc tính chung và
đặc tính riêng của các sự vật đó. Nói cách khác, phán đoán là tư tưởng (ý nghĩ, quan điểm, quan niệm...) đã
định hình trong tư duy phản ánh các hiện tượng ở một phẩm chất xác định mà nhà
nghiên cứu có thể xác nhận là đúng hay sai. Như vậy, phán đoán cũng là sự hiểu
biết về bản chất của các hiện tượng như khái niệm, nhưng khác với khái niệm ờ
chỗ, phán đoán nếu đúng chỉ là sự hiểu biết từng mặt, từng phần của bản chất,
chứ không phải là sự hiểu biết tương đối toàn diện và có hệ thống về bản chất.
Phán đoán bao giờ cũng được thể hiện
dưới hình thức ngôn ngữ là câu trần thuật có chủ ngữ và vị ngữ; trong khi đó,
khái niệm được thể hiện dưới dạng một hệ thống của nhiều câu, dĩ nhiên một hệ
thống của nhiều câu có thể được rút gọn thành một từ hay một cụm từ .Quan hệ
giữa phán đoán và khái niệm có nét giống với quan hệ giữa bản chất và quy luật,
bởi vì nếu một bản chất gồm nhiều quy luật thì một khái niệm cũng gồm nhiều
phán đoán đúng, và nếu khái niệm là sự phản ánh của bản chất, thì phán đoán
đúng là sự phản ánh của quy luật.
Thuật
ngữ
Khi sử dụng từ "khái niệm
"và "thuật ngữ" cần chú ý phân biệt sự khác nhau giữa chúng.
Nếu khái niệm là sự phản ánh của bản
chất bởi con người, thì thuật ngữ là cái được con người sáng tạo ra dùng để chỉ
khái niệm hoặc ý niệm. Có thể nói một cách hình ảnh rằng, thuật ngữ là vỏ vật
chất của khái niệm hoặc ý niệm.
Khái niệm lúc đầu được hình thành từ
một người cụ thể, sau đó nó được lan truyền sang nhiều người khác thông qua quá
trình giao tiếp. Quá trình giao tiếp về mặt này là quá trình lan truyền kiến
thức con người không thể không sử dụng thuật ngữ như là công cụ vật chất định
hình, ghi giữ và chuyển tải khái niệm từ người này sang người khác. Có thể hình
dung sự khác nhau giữa khái niệm và thuật ngữ giống như sự khác nhau giữa thông
tin và tín hiệu. Tín hiệu là phương tiện để truyền tải thông tin từ người này
sang người khác, còn thông tin là ý nghĩ (sự nhận thức, sự hiểu biết, tri thức)
được truyền tải từ người này sang người khác thông qua tín hiệu.
Vì là phương tiện được con người
sáng tạo ra dùng để chỉ khái niệm, nên thuật ngữ được con người sử dụng rất
linh hoạt và mềm dẻo. Tuy cùng để chỉ một khái niệm, nhưng có thể những người ở
các nước khác nhau, ở các vùng khác nhau, ở các thời đại khác nhau lại dùng các
thuật ngữ khác nhau. Thậm chí những người khác nhau trong cùng một nước, một
vùng, một thời điểm cĩmg có khi sử dụng các thuật ngữ khác nhau để chỉ một khái
niệm. Một thuật ngữ có khi được dùng để chỉ nhiều niệm (từ đồng âm khác nghĩa).
Nhiều thuật ngữ có khi lại cùng được dùng để chỉ một khái niệm (từ đồng nghĩa
khác âm). Do việc sú dụng thuật ngữ linh hoạt và mềm dẻo như vậy, nên các từ
điển dù có liên tục bổ sung cũng khó có thể liệt kê hết các nghĩa khác nhau của
một tử và các từ khác nhau có cùng nghĩa. Việc truyền tải khái niệm từ người
này sang người khác, do đó, cũng khó tránh khỏi sai lệch hoặc thiếu sót ít
nhiều: người đọc hoặc người nghe có thể hiểu nhầm tư tưởng, ý nghĩ của người
viết hoặc của người nói.
Thuật ngữ tuy được con người sử dụng
một cách mềm dẻo để chỉ khái niệm, song bản thản khái niệm lại cũng luôn biến
đổi từ chưa sâu sắc đến sâu sắc, từ sâu sắc ít đến sâu sắc nhiều. Chẳng hạn,
các nhà nghiên cứu đều sử dụng thuật ngữ "chủ nghĩa tư bản" đề chỉ
khái niệm "chủ nghĩa tư bản", song khái niệm (sự hiểu biết) về
"chủ nghĩa tư bản" là rất khác nhau ở những người khác nhau, ở những
thời điểm khác nhau. Tình hình này lại càng làm tăng thêm khả năng sai lệch
trong việc truyền tải khái niệm từ người này sang người khác.
Định nghĩa khái niệm và định nghĩa
thuật ngữ
Để hạn chế sự sai lệch trong việc
truyền tải khái niệm, c cần chú trọng việc định nghĩa các khái niệm và định
nghĩa các thuật ngữ được sử dụng.
Định nghĩa khái niệm là vạch ra phần
cơ bản trong nội hàm khái niệm, tức là trình bày tóm tắt sự nhận thức (sự hiểu
biết) của con người về bản chất của các đối tượng mà khái niệm phản ánh. Chẳng
hạn, định nghĩa khái niệm "con người" là trình bày tóm tắt sự hiểu
biết của chúng ta cho đến nay đã đạt tới về bản chất của con người: "Con
người là động vật biết chế tạo và sử dụng công cụ lao động".
Toàn bộ sự hiểu biết của con người
về một khái niệm (dù đó là khái niệm đơn giản như cốc, chén, bàn, ghế...) là
rất phong phú. Để trình bày toàn bộ sự hiểu biết ấy có khi phải cần tới hàng
chục, hàng trăm... công trình nghiên cứu. Ví dụ số lượng sách viết về động vật
(trình bày sự hiểu biết của con người về bản chất của động vật) cho đến nay tuy
đã là rất lớn nhưng đó chưa phải là con số cuối cùng. Để trình bày tóm tắt sự
hiểu biết của con người về một bản chất nào đó (để định nghĩa một khái niệm)
thì tất nhiên không cần phải đến số lượng sách như vậy.
Định nghĩa khái niệm là vạch ra phần
cơ bản trong nội hàm khái niệm, cũng tức là chỉ ra các quy luật cơ bản nhất
trong hệ thống các quy luật tạo thành bản chất được phản ánh trong nội hàm khái
niệm.
Như vậy, định nghĩa một khái niệm
nào đó là một công việc khó khăn và phức tạp vì cần phải đạt được mục đích là
qua đó người đọc hoặc người nghe có được sự hiểu biết về những quy luật cơ bản
nhất trong hệ thống các quy luật tạo thành bản chất mà khái niệm phản ánh.
Khác với định nghĩa khái niệm, định
nghĩa thuật ngữ là tìm những thuật ngữ (hay những cụm thuật ngữ) khác đã biết
có cùng nghĩa với thuật ngữ cần định nghĩa. Chẳng hạn, ở định nghĩa "ASEAN
là hiệp hội các nước Đông Nam Á" thì "ASEAN" và "Hiệp hội
các nước Đông Nam Á" là hai thuật ngữ có cùng nghĩa.
Định nghĩa thuật ngữ tuy không phức
tạp như định nghĩa khái niệm, song không phải là không quan trọng, bởi vì nếu
không định nghĩa thuật ngữ thì người đọc hoặc người nghe có thể sẽ hiểu sai ý
của người viết hoặc người nói. Các nhà nghiên cứu đều biết rằng, đã có nhiều
cuộc tranh luận xảy ra không phải là do bất đồng về quan điềm, mà là do hiểu
lầm nhau về thuật ngữ, là do hai bên tranh luận tuy sử dụng cùng một thuật ngữ
nhưng với hai nghĩa khác nhau mà lại cứ tưởng rằng họ sử dụng thuật ngữ ấy theo
cùng một nghĩa. Để tránh những sự hiểu lầm không đáng có như vậy, trong khoa
học trước khi đính nói, hoặc viết gì đó (cho người khác nghe hoặc đọc), người
ta phải tiến hành định nghĩa tất cả các thuật ngữ được sử dụng nếu như nghi ngờ
người đọc hoặc người nghe hiểu lầm.
Trong các tác phẩm của người xưa có
rất nhiều thuật ngữ cần được định nghĩa nhưng lại không được định nghĩa, vì thế
mà những người về sau khi đọc các tác phẩm của họ đã có sự hiểu lầm đáng tiếc.
Cùng một câu nói của người xưa nhưng ngày nay có người thì giải thích theo kiểu
này, có người lại giải thích theo kiểu kia, người nào cũng cho rằng chỉ mình
mới hiểu đúng tư tưởng và ý nghĩ của người xưa.
Dĩ nhiên không thể đòi hỏi rằng
người xưa và cả hiện nay phải định nghĩa tất cả các thuật ngữ được sử dụng,
phải viết rõ ràng đến mức để hậu thế không hiểu lầm; tuy nhiên, càng hạn chế sự
hiểu lầm được bao nhiêu thì sẽ càng tốt bấy nhiêu, và do đó, đối với một số
thuật ngữ quan trọng cần có sự giải thích, cần có sự định nghĩa.
Nếu người nói hoặc người viết còn để
cho người nghe hoặc người đọc hiểu lầm tư tưởng và ý nghĩ của mình thì bài nói
hoặc bài viết ấy là đã mắc lỗi logic và như thế, ít nhiều là chưa thành công.
Suy luận
Có hai cách suy luận: suy luận “suy diễn” và suy luận “qui nạp"
Cách suy luận suy diễn
Theo Aristotle, kiến thức đạt được nhờ sự suy luận. Muốn suy luận phải có
tiền đề và tiền đề đó đã được chấp nhận. Vì
vậy, một tiền đề có mối quan hệ với kết luận rất rõ ràng.
Suy luận, suy diễn theo Aristotle là suy
luận đi từ cái chung tới cái riêng, về mối quan hệ đặc biệt. Thí dụ về suy luận suy diễn của Aristotle trong Bảng 2.1.
Bảng
2.1
Tiền đề chính:
|
Tất cả sinh viên đi học đều đặn
|
Tiền đề phụ:
|
Lan là sinh viên
|
Kết luận:
|
Lan đi học đều đặn
|
Suy luận qui nạp
Vào đầu những năm 1600s, Francis Bacon đã đưa ra một phương pháp tiếp cận
khác về kiến thức, khác với Aristotle. Ông cho rằng, để đạt được kiến thức mới
phải đi từ thông tin riêng để đến kết luận chung, phương pháp này gọi là phương
pháp qui nạp. Phương pháp nầy cho phép con người dùng những tiền đề riêng, là
những kiến thức đã được chấp nhận, như là phương tiện để đạt được kiến thức
mới. Thí dụ về suy luận qui nạp trong
Bảng 2.2.
Bảng
2.2
Tiền đề riêng:
|
Lan, Hằng, Huệ và Vân tham dự lớp đều đặn
|
Tiền đề riêng:
|
Lan, Hằng, Huệ và Vân đạt được điểm cao
|
Kết luận:
|
Học viên tham dự lớp đều đặn thì đạt được điểm cao
|
Ngày nay, các nhà nghiên cứu đã kết hợp hai phương pháp trên hay còn gọi
là “phương pháp khoa học”. Phương pháp khoa học cần phải xác định tiền đề chính
(gọi là giả thuyết) và sau đó phân tích các kiến thức có được (nghiên cứu
riêng) một cách logic để kết luận giả thuyết. Thí
dụ về phương pháp khoa học trong Bảng 2.3
Bảng
2.3
* Tiền đề chính (giả thuyết):
|
Sinh viên tham dự lớp đều đặn thì đạt được điểm cao
|
|
* Tham dự lớp(nguyên nhân còn nghi
ngờ):
|
Nhóm 1:
|
Lan, Hằng, Huệ và Vân tham dự lớp đều đặn
|
Nhóm 2:
|
Linh, Khánh, Vinh và Bình không tham dự lớp đều đặn
|
|
* Điểm(ảnh hưởng còn nghi ngờ):
|
Nhóm 1:
|
Lan, Hằng, Huệ và Vân đạt được điểm 9 và 10
|
Nhóm 2:
|
Linh, Khánh, Vinh và Bình đạt được điểm 5 và 6
|
|
* Kết luận:
|
Học viên tham dự lớp đều đặn thì đạt được điểm cao
so với không tham dự lớp đều đặn (vì vậy, tiền đề chính hoặc giả thiết được
công nhận là đúng)
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét