Thứ Năm, 8 tháng 8, 2013

MỘT SỐ YÊU CẦU ĐỐI VỚI BÀI BÁO KHOA HỌC NGÀNH LỊCH SỬ

Nguyễn Thị Mai Hoa
Đại học Quốc gia Hà Nội
Trong hoạt động nghiên cứu khoa học, các bài báo khoa học đóng một vai trò vô cùng quan trọng. Nó không chỉ là bản báo cáo về một công trình nghiên cứu, mà còn là một đóng góp cho kho tàng tri thức chung. Khoa học tiến bộ một phần lớn nhờ vào thông tin từ những bài báo khoa học. Nếu một công trình nghiên cứu đã hoàn tất mà kết quả không được công bố, thì người nghiên cứu có thể xem như chưa hoàn thành nghĩa vụ của mình.
Viết một bài báo chất lượng là một công việc không hề đơn giản, nếu không muốn nói là phức tạp, đòi hỏi người viết phải vắt óc suy nghĩ, đầu tư trí lực, tâm sức. Đây là một loại hình lao động hết sức nặng nhọc, vì ngoài việc có ý tưởng khoa học sáng tạo, cần có kỹ năng nghiên cứu, trình bày và thời gian triển khai – đó là những nỗ lực to lớn, bền bỉ trên quãng đường trường đầy chông gai, thậm chí không hiếm thất bại.

1. Cấu trúc
Phác họa cấu trúc của một bài báo trước khi đặt bút viết phải được người nghiên cứu coi là ưu tiên hàng đầu. Một bài báo khoa học được đánh giá là đáp ứng yêu cầu nghiên cứu phải có cấu trúc gọn, rõ, nhìn trên đó, người đọc lập tức nắm bắt, đọc được ý tưởng khoa học mà nhà nghiên cứu muốn truyền tải.
Cấu trúc thông thường của một bài báo gồm: Dẫn nhập, nội dung và kết luận. Ngoài ra, nhiều tạp chí đòi hỏi thêm phần Tóm tắt (Summary).
Tóm tắt là phần được độc giả rất lưu tâm, nhất là hiện nay khi Tóm tắt được tin học hóa gần như tuyệt đối. Người đọc sau khi đọc tên bài báo, tên tác giả, sẽ đọc Tóm tắt trước khi quyết định đọc hay không đọc nội dung toàn văn. Một Tóm tắt viết tốt thông báo đến người đọc ý tưởng nghiên cứu và nội dung chủ yếu của bài báo. Tóm tắt được xem như lời giới thiệu ngắn (brief introduction) về bài viết. Tóm tắt có thể được in lại ở nhiều tài liệu cùng với tên bài, tên tác giả mà không phải toàn bài. Vì lẽ đó,Tóm tắt, tự bản thân nó, phải đáp ứng yêu cầu đứng độc lập với bài báo.
Nhiệm vụ chính yếu nhất trong Dẫn nhập (mở đầu, giới thiệu, đặt vấn đề) là phải làm cho người đọc tiếp nhận và quan tâm đến bài báo. Hơn nữa, Dẫn nhập còn giúp cho người biên tập bài báo hay Tổng biên tập tạp chí thẩm định tầm quan trọng của nó. Trong phần Dẫn nhập, tác giả giới thiệu về vấn đề nghiên cứu, phác thảo mục tiêu nghiên cứu. Mục này sẽ đạt yêu cầu nếu trả lời được những câu hỏi: 1- Lý do thực hiện nghiên cứu? 2- Mục đích chính của nghiên cứu? Không chỉ có nhiệm vụ giới thiệu chủ đề, Dẫn nhập còn có nhiệm vụ xác định cách thức, định hướng mà tác giả sẽ phát triển bài viết. Nên chăm chút phần Dẫn nhập, vì một đoạn mở bài tốt có hiệu quả rất lớn.
Nội dung là phần quan trọng nhất của bài báo, trong đó tác giả thể hiện một cách đầy đủ nhất khả năng nghiên cứu, tư duy độc lập qua các mổ xẻ, phân tích, chứng minh các chiều cạnh của vấn đề nghiên cứu. Do phải phân tích, làm rõ mọi chiều cạnh của vấn đề nghiên cứu, nên phần Nội dung thường là tổng hợp của hàng loạt nội dung khác nhau; mỗi nội dung xoáy sâu vào một chiều cạnh, nhưng nằm trong một logic chặt chẽ, kết nối hợp lý. Cần tập trung viết, phân tích cụ thể các dẫn chứng hoặc vấn đề được đưa ra. Trong Nội dung, tác giả cần tìm ra "điểm nhấn" cho bài viết ở góc độ tiếp cận, soi chiếu, hoặc những phát hiện mới về khoa học. Một bài viết nghiên cứu không phải là một bài luận, xã luận hay một câu chuyện, nên các dữ kiện, thông tin cần phải được ghi chép, xác nhận, dẫn nguồn. Nên thận trọng với những tổng quát hóa, kết luận đã có. Người viết phải luôn có tư duy phản biện, cố gắng khách quan trong việc tìm hiểu thông tin, xác định, điều tra thông tin, dữ kiện.
Trong Kết luận, kết quả nghiên cứu phải được khẳng định một cách súc tích, ngắn gọn, đầy đủ, hoặc tóm tắt nội dung đã được trình bày, luận giải trong cả bài bằng một chút "chắc chắn", ví dụ như một câu trích hoặc ý kiến ủng hộ của nhà nghiên cứu khác. Đoạn kết bài phải khiến cho người đọc không một chút nghi ngờ nào về lập trường, quan điểm và ý kiến của người viết. Cũng có thể sử dụng kết quả nghiên cứu để soi rọi, vận dụng vào thực tiễn (ôn cố tri tân).
2. Bút pháp
Khi xem xét, đánh giá về một bài báo khoa học thuộc ngành lịch sử, bên cạnh giá trị về nội dung, tư tưởng và tư liệu,  cần chú ý tới giá trị về văn phong trình bày, diễn đạt. “Văn dĩ tải đạo” - những ý tưởng, những luận điểm, những nội dung khoa học chứa đựng trong mỗi bài báo khoa học, nếu không tìm ra một cách trình bày, không sử dụng một văn phong biểu đạt phù hợp, giá trị công trình, vì thế, có thể sẽ bị giảm sút đáng kể.
Bút pháp, hiểu một cách chung nhất, là cách thức sử dụng ngôn ngữ để phản ánh tư tưởng, nội dung, ý nghĩa…trong tác phẩm/công  trình (thuộc các loại hình văn học - nghệ thuật hoặc khoa học).
Bút pháp của một công trình khoa học là bút pháp khoa học; do đó, ở mỗi công trình khoa học ngôn ngữ, văn phong diễn đạt phải:
Đạt tính chuẩn xác: Phản ánh đúng, đủ nội dung, tư tưởng (khoa học) mà nó có nhiệm vụ biểu đạt. Điều đó đòi hỏi người viết phải sử dụng hệ thống khái niệm tương ứng với đối tượng nghiên cứu một cách phù hợp, có hiệu quả; ngôn ngữ, văn phong phải chuẩn xác tạo ra sự rõ ràng, súc tích, chặt chẽ, dễ hiểu; giúp người đọc nắm bắt được nội dung, tư tưởng khoa học chứa đựng trong bài viết một cách đầy đủ, nhanh chóng, chính xác. Cần tránh lối biểu đạt mập mờ, “nước đôi”. Trong nhiều trường hợp, tránh bộc lộ tình cảm cá nhân của người viết một cách thái quá, gây cảm giác thiên vị, chủ quan (nhất là trong phần mô tả, phân tích thực trạng của vấn đề nghiên cứu).
Giàu lượng thông tin: Chứa đựng, chuyển tải được nhiều thông tin khoa học thuộc về hoặc liên quan tới phạm vi đề cập, tới lĩnh vực xem xét giải quyết của bài báo trong một đơn vị ngôn ngữ (từ ngữ, câu, đoạn...) tối giản. Với một số chữ ít nhất, người đọc chỉ mất một thời lượng ngắn nhất để thâu nhận được một lượng thông tin (khoa học) nhiều nhất trong mỗi trang viết. Nói cách khác, câu văn, đoạn văn phải chứa chặt lượng thông tin mà tác giả cần chuyển tải tới người đọc.
Những yêu cầu đặt ra trên đây về thực chất và trên thực tế, không hề mâu thuẫn, càng không hề phủ nhận một “thuộc tính” khác trên bình diện bút pháp của một công trình khoa học: Đó là khả năng biểu cảm, biểu đạt phong phú, sinh động, nhằm góp phần tạo ra và làm tăng tính hấp dẫn của công trình, khắc phục được tình trạng khô khan, “vô hồn” mà nhiều công trình khoa học thường mắc phải khi trình bày các sự kiện, hiện tượng cũng như khi lập luận, lý giải, khái quát hoặc trình bày các luận điểm, luận chứng, luận cứ khoa học vốn trừu tượng, khô khan, nặng nề… Vấn đề đặt ra là khi sử dụng từ ngữ, phải bảo đảm sự chừng mực, tính khách quan, tính xác thực của những thông tin mà tác giả muốn thể hiện. Ngắn gọn lại, văn phong trình bày phải đáp ứng các yêu cầu: Chặt chẽ, chính xác, sáng sủa , súc tích, tĩnh lược.
3. Phương pháp trình bày
Liên quan chặt chẽ tới bút pháp của một công trình khoa học là phương pháp trình bày. Ở khía cạnh này, mô tả và khái quát được xem là hai phương pháp chính thuộc về phương pháp trình bày một bài báo khoa học.
Mô tả là phương pháp được sử dụng khi trình bày, khắc họa thực trạng của vấn đề nghiên cứu. Sử dụng phương pháp này cho phép nhà nghiên cứu tái hiện hiện thực với đầy đủ tính phong phú, đa dạng, đa chiều như nó vốn có. Khi sử dụng phương pháp thể hiện này, yêu cầu đặt ra là phải dựng lại đúng thực trạng của vấn đề nghiên cứu trên mọi chiều kích của nó, song đồng thời phải chọn lọc chi tiết, có định hướng, tránh lan man, dàn trải.
Khái quát là phương pháp được sử dụng khi trình bày bản chất, quy luật vận động của hiện thực; qua đó, (có thể) luận đoán khuynh hướng phát triển tất yếu của các sự kiện, hiện tượng nghiên cứu. Nói cách khác, nếu phương pháp miêu tả là nhằm tái hiện lại thực trạng của đối tượng, của vấn đề nghiên cứu, thì khái quát lại có mục đích nêu bật “thần thái”, “hồn cốt” của đối tượng ấy. Yêu cầu đặt ra cho phương pháp này là phải bám sát nội dung nghiên cứu mà tiến hành khái quát. Muốn vậy, người viết, ngoài khả năng về ngôn ngữ, còn phải nắm vững và vận dụng sáng tạo, linh hoạt hệ thống khái niệm chuyên ngành liên quan, nắm chắc, sử dụng nhuần nhuyễn các phương pháp nghiên cứu khoa học chuyên ngành, nhất là phương pháp logic.
4. Một số lưu ý khác
Thứ nhất, đọc lại bài viết.
Các tác giả là trước khi gửi bài báo tới tạp chí, hãy đọc lại bài viết ít nhất bốn lần (đọc rà soát), mỗi lần có một mục đích rõ ràng. Có thể liệt kê bốn mục đích căn bản cho bốn lần đọc:
1- Cân nhắc kết cấu đã có của bài viết để đạt mức tối ưu.
2- Kiểm tra những nội giải quyết trong bài báo để đảm bảo truyền tải đầy đủ ý tưởng nghiên cứu.
3- Kiểm tra logic của toàn bộ bài báo, cũng như trong từng nội dung triển khai nghiên cứu.
4- Rà soát lỗi kỹ thuật, chính tả, diễn đạt, văn phong, kiểm tra các số liệu, sự kiện trong bài, các bảng, các biểu đồ.
Nhắc thêm rằng, với ít nhất bốn mục đích đọc đã liệt kê, nên: 1- Cách quãng các lần đọc với một khoảng thời gian vừa đủ để có thể tỉnh táo hoàn thành mục đích đọc; 2- Các mục đích đọc trong các lần đọc có thể phân tách riêng rẽ, cũng có thể có thể lồng ghép, song không bao giờ được phép quên/xem nhẹ bất cứ mục đích đọc nào.
Thứ hai, sự tĩnh lược.
Sự súc tích thái quá dẫn tới việc lược bớt những từ hay ý tưởng bắt buộc phải có để có thể hiểu được câu văn hoặc nội dung bài. Sự quá ngắn gọn làm hỏng tính sáng sủa của trình bày khoa học. Sự rút gọn thái quá trong một báo cáo khoa học có thể dẫn đến sự hụt hẫng trong lý giải các nội dung khoa học cần thiết, bởi nhà khoa học phải trình bày từng giai đoạn lý luận của mình để độc giả tránh phải suy diễn ngay cả khi một số giai đoạn có vẻ là tất yếu. Sự tĩnh lược là lược bỏ có nguyên tắc, song vẫn đảm bảo tính logic, vẫn đầy đủ thông tin. Tĩnh lược là giai đoạn cuối cùng, khi bài báo đã được viết xong. Tĩnh lược là đảm bảo cho bài báo tuân thủ được nguyên tắc: Chặt chẽ, sáng sủa, súc tích.
Thứ ba, văn trong luận.
  Viết bằng một ngôn ngữ đơn giản và rõ ràng, loại bỏ cách diễn đạt văn hoa không có nghĩa là loại bỏ chất “văn trong luận".“Văn trong luận" có nghĩa là không dùng một từ nhiều lần liên tục, gần nhau, ngoại trừ khi muốn tạo ra những tác dụng lặp lại; do đó, nên dùng các từ đồng dạng (từ đồng nghĩa). “Văn trong luận" là cách viết uyển chuyển, có sắc thái, phong phú, đa dạng về từ ngữ, văn phong sáng sủa, mạch lạc. "Văn trọng luận" là cách sử dụng ngôn từ biểu đạt ý tưởng khoa học đạt tới trình độ nghệ thuật, để biến ngôn ngữ cùng với ý tưởng khoa học làm nên/khắc họa sắc thái/bản sắc của người nghiên cứu, để người nghiên cứu có cá tính, có cái riêng, không thể trộn lẫn. 

    

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét